
Thực phẩm là nguồn
cung cấp dinh dưỡng hàng ngày cho cơ thể, giúp cơ thể khoẻ mạnh, chống lại các
nguy cơ của bệnh tật đang có mặt ở khắp nơi trong môi trường; giúp người ta hoạt
động và làm việc. Như vậy, nếu nguồn thực phẩm không hợp vệ sinh, sức khoẻ con
người sẽ bị đe doạ.
Vệ sinh thực phẩm
là mọi điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và phù hợp của thực
phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực phẩm.
An toàn thực phẩm
là sự bảo đảm thực phẩm không gây hại cho người tiêu dùng khi nó được chuẩn bị
và hoặc ăn theo mục đích sử dụng.
Vệ sinh an toàn thực
phẩm
Là tất cả điều kiện,
biện pháp cần thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển
cũng như sử dụng nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho
sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng. Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công
việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm
như nông nghiệp, thú y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
Do đó, thực hành vệ
sinh an toàn thực phẩm nhằm vào việc bảo vệ sức khỏe cho chính bạn và sức khỏe
của cộng đồng, hơn nữa nó còn bảo vệ an toàn cho công việc kinh doanh của bạn.
Điều quan trọng là
trước khi đưa thực phẩm vào cơ thể, chúng ta cần phải tiến hành chế biến nó. Việc
chế biến thực phẩm như thế nào để đảm bào an toàn vệ sinh tuỳ thuộc vào nơi chế
biến và cách chế biến của người đầu bếp. Chỉ coi trọng cách chế biến thực phẩm
mà không quan tâm đến chế biến ở đâu sẽ là điều không thể chấp nhận được. Chính
vì lẽ đó, chúng ta cần tạo môi trường an toàn, phải cải thiện, sắp xếp và dọn dẹp
vệ sinh sạch sẽ khu vực sơ chế và chế biến thực phẩm.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
Thực phẩm: là những
thức ăn, đồ uống của con người dưới dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến;
bao gồm cả đồ uống, nhai ngậm và các chất đã được sử dụng trong sản xuất, chế
biến thực phẩm.
Vệ sinh thực phẩm:
là mọi điều kiện và biện pháp cần thiết để đảm bảo sự an toàn và phù hợp của thực
phẩm ở mọi khâu thuộc chu trình thực phẩm.
An toàn thực phẩm:
là sự bảo đảm thực phẩm không gây hại cho người tiêu dùng khi nó được chuẩn bị
và/hoặc ăn theo mục đích sử dụng.
Định nghĩa vệ sinh
an toàn thực phẩm: vệ sinh an toàn thực phẩm là tất cả điều kiện, biện pháp cần
thiết từ khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, phân phối, vận chuyển cũng như sử dụng
nhằm bảo đảm cho thực phẩm sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức khỏe, tính mạng
người tiêu dùng. Vì vậy, vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc đòi hỏi sự tham
gia của nhiều ngành, nhiều khâu có liên quan đến thực phẩm như nông nghiệp, thú
y, cơ sở chế biến thực phẩm, y tế, người tiêu dùng.
NHỮNG THÁCH THỨC VÀ TÌNH HÌNH VSATTP HIỆN NAY
Những thách thức
Sự bùng nổ dân số
cùng với đô thị hóa nhanh dẫn đến thay đổi thói quen ăn uống của nhân dân, thúc
đẩy phát triển dịch vụ ăn uống trên hè phố tràn lan, khó có thể đảm bảo vệ sinh
an toàn thực phẩm. Thực phẩm chế biến ngày càng nhiều, các bếp ăn tập thể gia
tăng … là nguy cơ dẩn đến hàng loạt vụ ngộ độc.
Bên cạnh đó, sự gia
tăng nhanh dân số còn làm khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, trong đó nguồn nước
sạch sử dụng cho sinh hoạt và ăn uống thiếu cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ô nhiễm môi trường:
sự phát triển của các ngành công nghiệp dẩn đến môi trường ngày càng bị ô nhiễm,
ảnh hưởng đến vật nuôi và cây trồng. Mức độ thực phẩm bị nhiễm bẩn tăng lên, đặc
biệt là các vật nuôi trong ao hồ có chứa nước thải công nghiệp, lượng tồn dư một
số kim loại nặng ở các vật nuôi cao.
Sự phát triển của
khoa học công nghệ: việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mới trong
chăn nuôi, trồng trọt, sản xuất, chế biến thực phẩm làm cho nguy cơ thực phẩm bị
nhiễm bẩn ngày càng tăng do lượng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất bảo quản
trong rau, quả; tồn dư thuốc thú y trong thịt, thực phẩm sử dụng công nghệ gen,
sử dụng nhiều hóa chất độc hại, phụ gia không cho phép, cũng như nhiều quy
trình không đảm bảo vệ sinh gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát.
Tình hình vệ sinh
an toàn thực phẩm hiện nay
Trong những năm gần
đây, nền kinh tế của nước ta chuyển sang cơ chế thị trường. Các loại thực phẩm
sản xuất, chế biến trong nước và nước ngoài nhập vào Việt Nam ngày càng nhiều
chủng loại. Việc sử dụng các chất phụ gia trong sản xuất trở nên phổ biến. Các
loại phẩm màu, đường hóa học đang bị lạm dụng trong pha chế nước giải khác, sản
xuất bánh kẹo, chế biến thức ăn sẵn như thịt quay, giò chả, ô mai … Nhiều loại
thịt bán trên thị trường không qua kiểm duyệt thú y. Tình hình sản xuất thức
ăn, đồ uống giả, không đảm bảo chất lượng và không theo đúng thành phần nguyên
liệu cũng như quy trình công nghệ đã đăng ký với cơ quan quản lý. Nhãn hàng và
quảng cáo không đúng sự thật vẫn xảy ra.
Ngoài ra, việc sử dụng
hóa chất bảo vệ thực vật bao gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ, hóa chất kích thích
tăng trưởng và thuốc bảo quản không theo đúng quy định gây ô nhiễm nguồn nước
cũng như tồn dư các hóa chất này trong thực phẩm.
Việc bảo quản lương
thực thực phẩm không đúng quy cách tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc phát
triển đã dẩn đến các vụ ngộ độc thực phẩm.
Các bệnh do thực phẩm
gây nên không chỉ là các bệnh cấp tính do ngộ độc thức ăn mà còn là các bệnh mạn
tính do nhiễm và tích lũy các chất độc hại từ môi trường bên ngoài vào thực phẩm,
gây rối loạn chuyển hóa các chất trong cơ thể, trong đó có bệnh tim mạch và ung
thư.
Theo báo cáo của Tổ
chức Y tế Thế giới đánh giá các chương trình hành động đảm bảo chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được nguyên nhân chính gây tử
vong ở trẻ em là các bệnh đường ruột, phổ biến là tiêu chảy. Đồng thời cũng nhận
thấy nguyên nhân gây các bệnh trên là do thực phẩm bị nhiễm khuẩn. Ở Việt Nam,
theo thống kê của Bộ Y tế, trong 10 nguyên nhân gây tử vong thì nguyên nhân do
vi sinh vật gây bệnh đường ruột đứng thứ 2.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
Tầm quan trọng của
vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sức khỏe, bệnh tật.
Trước mắt, thực phẩm
là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo sức khỏe
con người nhưng đồng thời cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu không đảm bảo vệ
sinh. Không có thực phẩm nào được coi là có giá trị dinh dưỡng nếu nó không đảm
bảo vệ sinh.
Về lâu dài thực phẩm
không những có tác động thường xuyên đối với sức khỏe mỗi con người mà còn ảnh
hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực phẩm không đảm bảo vệ
sinh trước mắt có thể bị ngộ độc cấp tính với các triệu chứng ồ ạt, dễ nhận thấy,
nhưng vấn đề nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ
quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc có thể gây các dị tật, dị
dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác
nhân gây bệnh. Những trẻ suy dinh dưỡng, người già, người ốm càng nhạy cảm với
các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh
tật nhiều hơn.
Vệ sinh an toàn thực
phẩm tác động đến kinh tế và xã hội
Đối với nước ta
cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực phẩm là một loại sản phẩm
chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng.
Vệ sinh an toàn thực
phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để cạnh tranh trên
thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản
phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các chất hóa học
tổng hợp hay tự nhiên vượt quá mức quy định cho phép của tiêu chuẩn quốc tế hoặc
quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng.
Những thiệt hại khi
không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm gây nên nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh
cấp tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các bệnh gây ra từ thực phẩm
đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe, chi phí do phải chăm
sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm … Đối với nhà sản xuất, đó là
những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản phẩm, những
thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin quảng cáo … và thiệt hại lớn nhất là mất
lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra còn có các thiệt hại khác như phải điều
tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại, giải quyết hậu quả …
Do vậy, vấn đề đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để phòng các bệnh gây ra từ thực phẩm có ý nghĩa
thực tế rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi trường
sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu đầu tiên của
vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ độc do ăn phải
thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm phải đảm bảo lành và sạch.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY Ô NHIỄM THỰC PHẨM
Do quá trình chăn nuôi,
gieo trồng, sản xuất thực phẩm, lương thực.
Thực phẩm có nguồn
gốc từ gia súc, gia cầm bị bệnh hoặc thủy sản sống ở nguồn nước bị nhiễm bẩn.
Các loại rau, quả
được bón quá nhiều phân hóa học, sử dụng thuốc trừ sâu không cho phép hoặc cho
phép nhưng không đúng về liều lượng hay thời gian cách ly. Cây trồng ở vùng đất
bị ô nhiễm hoặc tưới phân tươi hay nước thải bẩn. Sử dụng các chất kích thích
tăng trưởng, thuốc kháng sinh.
Do quá trình chế biến
không đúng:
Quá trình giết mổ,
chế biến gia súc, gia cầm, quá trình thu hái lương thực, rau, quả không theo
đúng quy định.
Dùng chất phụ gia
không đúng quy định của Bộ Y tế để chế biến thực phẩm.
Dùng chung dao thớt
hoặc để thực phẩm sống với thực phẩm chín.
Dùng khăn bẩn để
lau dụng cụ ăn uống.
Bàn chế biến thực
phẩm, bàn ăn hoặc dụng cụ ăn uống nhiễm bẩn. Không rửa tay trước khi chế biến
thực phẩm, nhất là khi chuẩn bị thực phẩm cho trẻ em.
Người chế biến thực
phẩm đang bị bệnh truyền nhiễm, tiêu chảy, đau bụng, nôn, sốt, ho hoặc nhiễm
trùng ngoài da.
Rửa thực phẩm, dụng
cụ ăn uống bằng nước nhiễm bẩn.
Nấu thực phẩm chưa
chín hoặc không đun lại trước khi ăn.
Do quá trình sử dụng
và bảo quản không đúng
Dùng dụng cụ sành sứ,
sắt tráng men, nhựa tái sinh … bị nhiễm chất chì để chứa đựng thực phẩm.
Để thức ăn qua đêm
hoặc bày bán cả ngày ở nhiệt độ thường; thức ăn không được đậy kỹ, để bụi bẩn,
các loại côn trùng gặm nhấm, ruồi và các động vật khác tiếp xúc gây ô nhiễm.
Do thực phẩm bảo quản
không đủ độ lạnh hoặc không đủ độ nóng làm cho vi khuẩn vẫn phát triển.
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
(10 lời khuyên để
phòng ngộ độc thực phẩm)
Chọn thực phẩm tươi
sạch
Với rau quả: chọn
các loại rau, quả tươi, không bị dập nát, không có mùi lạ.
Với thịt phải qua
kiểm dịch thú y và đạt tiêu chuẩn thịt tươi.
Cá và thủy sản phải
còn tươi, giữ nguyên màu sắc bình thường, không có dấu hiệu ươn, ôi.
Các thực phẩm đã chế
biến phải được đóng hộp hoặc đóng gói đảm bảo, phải có nhãn hàng hóa ghi đầy đủ
nội dung như tên sản phẩm, trọng lượng, các thành phần chính, cách bảo quản, sử
dụng, nơi sản xuất, chế biến; có số đăng ký sản xuất và còn thời hạn sử dụng. Với
đồ hộp không chọn hộp bị méo, phồng hay gỉ.
Không sử dụng thực
phẩm khô đã bị mốc.
Không sử dụng các
loại thực phẩm lạ (cá lạ, rau, quả hoặc nấm lạ) chưa biết rõ nguồn gốc.
Không sử dụng các
phẩm màu, đường hóa học không nằm trong danh mục Bộ Y tế cho phép.
Giữ vệ sinh nơi ăn
uống và chế biến thực phẩm
Khu vực chế biến thực
phẩm không có nước đọng, xa các khu khói, bụi bẩn, nhà vệ sinh hoặc khu chăn
nuôi gia súc, rác thải gây ô nhiễm môi trường.
Tất cả các bề mặt sử
dụng để chuẩn bị thực phẩm phải dễ cọ rửa, luôn giữ gìn sạch sẽ, khô ráo.
Bếp phải đủ ánh
sáng và thông gió.
Phải đủ nước sạch sử
dụng để chế biến thực phẩm và vệ sinh khu vực chế biến thường xuyên.
Ngăn ngừa sự đi lại
của gián, chuột và các động vật khác trong khu vực chế biến thực phẩm.
Sử dụng đồ dùng nấu
nướng và ăn uống sạch sẽ
Không để dụng cụ bẩn
qua đêm.
Bát đĩa dùng xong
phải rửa ngay. Không dùng khăn ẩm mốc, nhờn mỡ để lau khô bát đĩa. Nếu dụng cụ
vừa rửa xong cần dùng ngay thì nên tráng lại bằng nước sôi.
Dụng cụ tiếp xúc với
thức ăn chín và sống phải để riêng biệt.
Không sử dụng những
dụng cụ bị sứt mẻ, hoen gỉ vì khó rửa.
Thức ăn còn thừa,
thực phẩm thải bỏ phải đựng vào thùng kín có nắp đậy và chuyển đi hằng ngày.
Chỉ sử dụng xà
phòng, các chất tẩy rửa dụng cụ ăn uống được ngành Y tế cho phép để không tồn
dư gây độc sang thực phẩm.
Không dùng dụng cụ
bằng đồng, nhôm, thủy tinh gia công, nhựa tái sinh có màu để nấu nướng, chứa đựng
thực phẩm lỏng có tính acid hoặc các loại cồn rượu vì chúng có thể làm tan các
kim loại nặng như chì, đồng … hoặc phụ gia vào thực phẩm.
Tuyệt đối không được
dùng bao bì từng chứa đựng các hóa chất độc, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú
y, thuốc tẩy, chất sát trùng để đựng thực phẩm.
Chuẩn bị thực phẩm
sạch sẽ và nấu chín kỹ
Rau, quả phải ngâm
ngập trong nước sạch rồi rửa kỹ dưới vòi nước chảy hoặc rửa trong chậu, thay nước
3-4 lần.
Các loại thực phẩm
đông lạnh phải làm tan đá hoàn toàn và rửa sạch trước khi nấu nướng.
Nhiệt độ sôi có thể
tiêu diệt hầu hết các loại vi khuẩn gây bệnh nhưng phải nấu kỹ để đạt nhiệt độ
sôi đồng đều. Chú ý phần thịt gần xương nếu thấy còn có màu hồng hoặc màu đỏ
thì bắt buộc phải đun lại cho chín hoàn toàn.
Không nên ăn các thức
ăn sống như gỏi cá, thịt bò tái, gỏi …
Ăn ngay sau khi thức
ăn vừa nấu xong hoặc vừa chuẩn bị xong
Thức ăn chín để nguội
ở nhiệt độ bình thường dễ bị vi khuẩn xâm nhập và phát triển. Để đảm bảo an
toàn nên ăn ngay khi thức ăn còn nóng vừa nấu chín xong.
Đối với các thực phẩm
không cần nấu chín như chuối, cam, dưa và các loại quả khác thì cần ăn ngay sau
khi vừa bóc hay vừa cắt ra.
Bảo quản cẩn thận
thức ăn đã nấu chín và đun kỹ lại trước khi ăn
Nếu thức ăn phải
chuẩn bị trước hoặc phải đợi sau 3 giờ thì cần giữ nóng ở nhiệt độ 60 độ C hoặc
duy trì ở điều kiện lạnh ≤ 10 độ C. Với trẻ nhỏ, phải cho ăn ngay sau khi thức
ăn vừa nguội và không áp dụng cách bảo quản này.
Không đưa quá nhiều
thức ăn còn ấm hoặc thức ăn còn đang nóng vào tủ lạnh.
Không để lẫn thực
phẩm sống với thức ăn chín.
Không dùng dao, thớt
vừa cắt, thái thịt sống chưa được rửa sạch để thái thức ăn chín.
Thức ăn phải đậy kỹ
tránh ruồi, côn trùng xâm nhập.
Không dùng tay để bốc
thức ăn chín hay đá để pha nước uống.
Không để các hóa chất,
thuốc bảo vệ thực vật hoặc các chất gây độc khác ở trong khu chế biến thực phẩm.
Bảo quản tốt các thực
phẩm đóng gói theo đúng yêu cầu ghi của nhãn.
Đun lại thức ăn ở
nhiệt độ sôi đồng đều ngay trước khi ăn là biện pháp tốt nhất để phòng ngừa các
vi khuẩn phát triển trong quá trình bảo quản.
Giữ vệ sinh cá nhân
tốt
Người chăm sóc trẻ
cần rửa tay bằng xà phòng và nước sạch trước khi cho trẻ ăn hoặc tiếp xúc với
thức ăn, sau khi đi vệ sinh, sau khi tiếp xúc với thực phẩm tươi sống.
Mặc quần áo sạch sẽ,
đầu tóc gọn gàng khi chuẩn bị thức ăn.
Không hút thuốc,
không ho, hắt hơi trong khi chuẩn bị thực phẩm.
Giữ móng tay ngắn
và sạch sẽ.
Nếu có vết thương ở
tay cần băng kín bằng vật liệu không ngấm nước.
Không tiếp xúc với
thực phẩm khi đang bị đau bụng, tiêu chảy, nôn, sốt hay có biểu hiện của bệnh
truyền nhiễm.
Sử dụng nước sạch
trong ăn uống
Dùng các nguồn nước
thông dụng như nước máy, nước giếng, nước mưa, sông suối đã qua xử lý để rửa thực
phẩm, chế biến đồ ăn uống và rửa dụng cụ.
Nước phải trong,
không có mùi, không có vị lạ.
Dụng cụ chứa nước
phải sạch, không được để rêu, bụi bẩn bám xung quanh hoặc ở đáy, có nắp đậy.
Dùng nước đã đun
sôi để uống hoặc chế nước giải khát, làm kem, đá.
Sử dụng vật liệu
bao gói thực phẩm sạch sẽ, thích hợp và đạt tiêu chuẩn vệ sinh
Không sử dụng sách,
báo cũ để gói thức ăn chín.
Đồ bao gói phải đảm
bảo sạch, giữ được tính hấp dẫn về mùi vị, màu sắc và không thấm chất độc vào
thực phẩm.
Nhãn thực phẩm phải
trung thực, có đầy đủ thông tin cần thiết như tên sản phẩm, trọng lượng, các
thành phần chính, cách bảo quản, sử dụng, nơi sản xuất, chế biến, có số đăng ký
sản xuất, thời hạn sử dụng.
Thực hiện các biện
pháp vệ sinh phòng bệnh, giữ gìn môi trường sống sạch sẽ
Thực hiện các biện
pháp diệt ruồi, gián, chuột … và hướng dẫn vệ sinh phòng chống các dịch bệnh
theo chỉ đạo của ngành Y tế.
Rác thải phải đựng
vào thùng kín có nắp đậy, đổ đúng giờ và đúng nơi quy định
Thực hiện vệ sinh
an toàn thực phẩm để giữ gìn sức khỏe gia đình
Thực phẩm là nguồn
cung cấp các chất dinh dưỡng cho cơ thể nhưng nếu thực phẩm không đảm bảo vệ
sinh an toàn thì lại có thể là nguồn gây bệnh. Thực phẩm có thể gây bệnh ở nhiều
khâu từ sản xuất đến vận chuyển, bảo quản, chế biến, nấu ăn và cách ăn.
Ðại bộ phận thực phẩm
dùng trong bữa ăn hàng ngày ở nước ta đều sản xuất ở nông thôn: gạo, ngô,
khoai, thịt, cá, trứng, đậu, lạc, vừng, rau, củ, quả… Gần đây một phần do cơ chế
thị trường, nhiều người chạy theo lợi nhuận, lợi dụng tình hình công tác kiểm
tra còn lỏng lẻo hoặc cũng có thể do thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, do
"điếc không sợ súng", do thói quen làm bừa làm ẩu nên nhiều người đã
không chấp hành những quy định về sử dụng hoá chất trừ sâu, sử dụng các chất
kích thích tăng trưởng, các hoá chất bảo quản thực phẩm, các phụ gia cho thêm
vào thực phẩm để tăng thêm mầu sắc, mùi vị hấp dẫn của các món ăn.
Các hoá chất này hoặc
là các chất độc không được phép sử dụng hoặc dùng quá liều lượng cho phép nên
đã gây ngộ độc cấp tính, gây đau bụng đi lỏng, có trường hợp tử vong hoặc mỗi
ngày tích luỹ lại một ít ở trong cơ thể gây ngộ độc kéo dài, gây ung thư.
Bên cạnh những ngộ
độc do hoá chất kể trên, còn nhiều vụ ngộ độc khác thường xảy ra vào mùa hè do
thực phẩm nhất là thịt bị nhiễm vi sinh vật: thịt súc vật ốm, chết, thịt băm,
thái rồi không nấu ngay, nấu rồi không ăn ngay để trong điều kiện mất vệ sinh,
thời tiết nóng rất thuận lợi cho vi sinh vật gây bệnh phát triển.
Một nguyên nhân
quan trọng nữa là tay những người nấu và chế biến thức ăn không được sạch, có mụn
nhọt và vi trùng ở các mụn nhọt này gây ô nhiễm thức ăn và gây ra các bệnh ngộ
độc thức ãn. Thời gian ủ bệnh có thể từ vài giờ ðến 1-2 ngày sau khi ăn phải thức
ăn nhiễm khuẩn. Thoạt đầu người bệnh thấy nhức đầu, mỏi mệt, buồn nôn. Sau đó
nôn mửa, đau bụng, đại tiện lỏng nhiều lần, sốt trên dưới 39 độ C. Những trường
hợp nặng người bệnh bị nôn mửa và tiêu chảy nhiều, bị mất nước, trụy tim mạch,
hạ huyết áp, có thể dẫn đến tử vong.
Ðể đề phòng các hậu
quả xấu nói trên, cần thực hiện các yêu cầu sau đây về vệ sinh an toàn thực phẩm
Các gia đình ở nông
thôn không sản xuất, đưa bán ra thị trường những thực phẩm không đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm. Chính quyền các cấp đặc biệt là chính quyền xã cần vận
động nhân dân sản xuất – trước mắt là rau ăn - đảm bảo không bón quá nhiều phân
đạm, không phun quá nhiều hoá chất trừ sâu, không tưới phân tươi, rau bán cũng
như rau trồng để nhà ăn, đảm bảo an toàn như nhau.
Giáo dục nhân dân -
đặc biệt là các bà nội trợ – những kiến thức và kỹ thuật chọn các loại thực phẩm
có giá trị dinh dưỡng, giá cả phải chăng, bảo đảm vệ sinh an toàn. Chú ý chọn
các loại rau quả tươi, thịt, cá tươi, trứng tươi, đậu lạc không bị mốc, chú ý
thời hạn sử dụng khi mua các thực phẩm chế biến sẵn hoặc đóng hộp.
Dùng nước sạch, an
toàn để chế biến thức ăn, đồ uống và rửa dụng cụ. Các đồ dùng để nấu nướng và
ăn uống phải đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, không dùng khăn ẩm mốc nhờn mỡ để lau khô
bát đũa.
Nấu chín kỹ thực phẩm
thịt, cá, dễ bị ô nhiễm bởi vi sinh vật gây bệnh và ăn ngay sau khi nấu. Thức
ăn nấu chín không ăn ngay để quá 4 giờ và nhất là để cách đêm nhất thiết phải
đun nấu chín lại.
Không để lẫn thực
phẩm chín với thực phẩm sống khi bảo quản – không dùng thớt thái thịt chín với
thớt thái thịt sống. Thịt chín để ăn ngay và thịt sống phải qua nấu nướng.
Giữ gìn vệ sinh cá
nhân người nấu ăn
- Rửa tay kỹ bằng
xà phòng và nước sạch khi bắt tay vào chế biến nấu ăn. Cắt ngắn móng tay, không
dùng tay để bốc và chia thức ăn.
- Không tham gia chế
biến thực phẩm hoặc phục vụ ăn uống khi đang bị đau bụng, tiêu chảy, sốt, nôn,
nhiễm trùng ngoài da hoặc các bệnh lây truyền khác. Giữ gìn vệ sinh nơi ăn uống
và chế biến thực phẩm
- Giữ gìn về sinh
môi trường nơi ăn và chế biến thực phẩm: xa khu chăn nuôi gia súc, nhà vệ sinh,
bãi rác thải, cống rãnh ô nhiễm.
- Nơi ăn sạch sẽ
thoáng mát, có bàn ăn cao tránh bụi bẩn, thức ãn bầy sẵn có lồng bàn che đậy
phòng ruồi nhặng.
- Phải có đủ nước sạch,
có vòi nước, rửa tay trước khi ăn.
Giữ gìn vệ sinh khi
ăn uống: Món ăn đã được nấu nướng ngon lành, sạch sẽ, an toàn đưa đến người ăn.
Người ăn phải đảm bảo không gây bệnh nơi bàn tay bẩn, bát đũa ăn không sạch, ãn
uống vô độ, ăn quá nhiều gây bội thực, uống rượu bia quá nhiều gây cảnh say rượu
nói bậy, nôn mửa mất vệ sinh và thiếu văn hoá.
Bữa ăn hợp lý, đảm
bảo vệ sinh an toàn, mọi người trong gia đình chú ý thực hiện các điều đơn giản
về vệ sinh an toàn thực phẩm nói trên để bữa ăn không là nguồn gây bệnh mà sẽ
là nguồn sức khoẻ, nguồn vui và hạnh phúc hàng ngày ở các gia đình.